Di tích kiến trúc cổ Lưu Cừ

Di tích kiến trúc cổ Lưu Cừ là một công trình xây dựng lâu đời, có thể nói đây là một kiến trúc đồ sộ, tiêu biểu cho bước phát triển mới về văn hóa, xã hội vùng đất đồng bằng Nam bộ vào những thế kỷ đầu công nguyên. Người xưa đã xây dựng nên nó với mục đích rất cụ thể, có yêu cầu xã hội rõ ràng, song đến ngày nay chúng ta không dễ đón nhận được ý đồ của người xưa. Sử sách không ghi chép, bia ký không lưu truyền, người đời không hay biết. Chúng ta phải lần tìm để giải mã nó bằng phương pháp khai quật khảo cổ, hiện trạng di tích không còn nguyên vẹn, đầy đủ như thuở ban đầu xây dựng, song vẫn còn lại nhiều vết tích kiến trúc tại chỗ (insitu) cho phép ta hình dung được và khám phá được ý đồ xây cất, sử dụng di chỉ này của những lớp người tiền bối.

 

Không còn nghi ngờ gì nữa, di chỉ này được xây dựng theo bố cục hình chữ nhật, được thiết kế theo luật cân đối rất rõ ràng và chặt chẽ, chiều dài theo hướng đông tây, chiều rộng theo hướng bắc nam. Mặt tiền ở phía đông có xây nền bậc lên xuống, các mặt nam, bắc, tây có vách tường xây cao và đường hành lang lát gạch bao quanh phía trong, khu trung tâm có bố cục xây thành những ô hình gần vuông nằm song song cách đều nhau bao quanh lô hình chữ nhật có kích thước tương đối nhỏ. Trong ô chữ nhật này được ngăn thành hai phần, phần phía tây có một di tích hình trụ tròn xây bằng gạch, chiều sâu trong lớp đất cát và di tích, trụ gạch này nằm ở vị trí gần như là chính tâm của toàn bộ bố cục của tòa kiến trúc.

Quanh tòa kiến trúc là bức tường gạch xây thật cân đối, hài hòa ở hai mặt nam và bắc với những trụ tròn gia cách khoảng đều nhau và giống nhau. Về mạn đông, vách tường xây gấp khúc 6 lần, ở quảng giữa là nền bậc lên xuống rộng rãi, đều đặn, cách vách bắc, tây và nam được xây thẳng chạy dài xen lẫn những chỗ giáp khúc nhỏ tạo nên 12 góc vuông vắn ở các trụ gỉa với 13 rìa cạnh lồi lõm, ngay ngắn theo hàng gạch từ trên xuống.

 

Từ hình hài bố cục chung, từ dáng vẻ của bộ phận kiến trúc, như đã kể từ độ cao mặt nền mặt thềm lên xuống, mặt nền hành lang… khiến chúng ta liên tưởng đến di chỉ kiến trúc này có nhiều biểu hiện của một kiến trúc kiểu đền đài xưa. Đặc biệt, trong quá trình khai quật, chúng ta đã thu tập tuy không nhiều một số hiện vật có ý nghĩa như: Linga, Yoni, những bông cài mủ bằng vàng, chính những di vật này đã chỉ báo cho biết kiến trúc cổ Lưu Cừ có nhiều khả năng là một ngôi đền dạn dài của đạo Bà La Môn. Trong đó, di tích trụ gạch xây ở ngăn phía tây trong ô hình chữ nhật được lắp bằng đất cát trắng mịn, có thể là di tích trung tâm tượng trưng cho hình ảnh của sự kết hợp Linga và Yoni – một loại hình linh vật được tôn thờ khá phổ biến trong đạo Bà La Môn. Quanh di tích kiến trúc gạch đó có nhiều viên gạch hình tam giác, hình thang có thể là vật liệu đã bị lăn đổ từ kiến trúc gạch có hình chóp tròn những ô hình gần vuông nằm ba mặt tây, nam, bắc của kiến trúc trụ gạch nói trên có thể là những nơi được thiết kế để bố trí dựng các pho tượng thờ hoặc vật thờ to lớn mà ngày nay đã không còn lưu lại dấu tích, mặt nền mặt phía đông như đã nói là mặt tiền có lối đi lên vào khu vực chính của ngôi đền để hành lễ tại nền gạch cao và tại hành lang xung quanh. Ngôi đền không lợp ngói, không thấy cột kèo, mái che… Đây là một dạng đặc biệt khá phổ biến trong các kiến trúc đền đài tôn giáo Bà La Môn thuở ấy.

Tóm lại, mặt dù di tích xưa không còn nguyên vẹn, di vật còn lại tại chỗ không nhiều. Song chúng ta vẫn có thể nhận biết nơi đây ngay từ thuở đầu xây dựng đã là một ngôi đền to lớn nguy nga của đạo Bà La Môn. Nơi đây từng một thời gian rất lâu, cả trên 1.500 năm là chốn hành đạo quan trọng của những tín đồ đạo Bà La Môn, những di tích được xây cất thêm hoặc bổ khuyết vào giai đoạn II như đã nói vế cơ bản vẫn giữ nguyên bố cục cũ trên bình diện vẫn là một ngôi đền hoành tráng, có khác chăng là tín ngưỡng phật giáo đã có vai trò nhất định trong sinh hoạt tôn giáo nơi đây.

 

Như vậy, di tích Lưu Cừ tuy ở vị trí khác biệt lập nhưng cùng có chung những đặc trưng rất cơ bản, nếu xét về mặt văn hóa thì có thể coi kiến trúc Lưu Cừ là một di tích thuộc nền văn hóa Óc Eo. Ở đây, cũng cần ghi nhận thêm cách di tích kiến trúc cổ Lưu Cừ không xa chừng vài chục mét chúng ta đã tìm thấy những mãnh gốm cổ Óc Eo điểm hình (loại gốm trắng móc có miệng loa, có gờ mép nổi cao) nằm trong lớp đất văn hóa của di chỉ cư trú cùng thời kỳ và phần phát hiện nay đã xác nhận thêm rõ ràng sự tồn tại vùng cư dân Lưu Cừ đã có cuộc sống tại chỗ của con người thời văn hóa Óc Eo vào những thế kỷ đầu Công nguyên và xa hơn nữa trên địa bàn bao quát “giồng” ven biển Trà Cú chúng ta cũng biết đến một số di tích kiến trúc cổ mà về vật liệu xây dựng, về kĩ thuật kiến trúc có nhiều yếu tố  khá giống với kiến trúc Lưu Cừ, khá gần gủi với các di tích xây bằng gạch của văn hóa Óc Eo, đó là những địa điểm như trường học, gò mã lạn, xẻo sâu, xẻo da… Từ những phát hiện mới kể trên, một vấn đề khoa học rộng lớn về văn hóa, lịch sử bắt đầu được gợi mở, một bức tranh văn hóa, lịch sử vùng đất “giồng” ven biển Trà Cú, Cửu Long, bước đầu được phát họa. Ngay từ lúc này có thể đưa ra nhận định vùng đất Lưu Cừ, Trà Cú vốn lâu nay tưởng như là nơi “đất địa” mới được khai pha trong vòng dăm ba thế kỷ gần đây nhưng trên thực tế là một trong n hững vùng đất cổ, là một địa bàn phát triển không kém phần quan trọng của nền văn hóa Óc Eo, của chủ nhân nền văn hóa ấy từ trên 1.500 năm trước.

Ngôi đền xưa Lưu Cừ nguy nga, đồ sộ, đầy dáng vẻ trang nghiêm vào thuở ấy được kiến lập nên tại đây thực sự là một kiến trúc tiêu biểu trong bối cảnh chung, rộng lớn của cuộc sống trong nề văn hóa Óc Eo. Ngôi đền này chắc hẳn từng 1 thời là trung tâm hành hương của nhiều đạo sĩ Bà la Môn, của các nhà sư đạo Phật ở các miền đất xa tới, là nơi quy tụ người dân trong vùng thường xuyên đến lễ bái, cầu mong điều tốt lành ở những đấng thần linh cao cả, ở đức Phật từ bi.

Ngày nay, ngắm nhìn toàn cảnh di tích còn lại của ngôi đền ấy, chúng ta vừa thán phục trình độ kĩ thuật cao, tài năng sáng tạo tuyệt vời của người xưa vừa như thấy ở đây dư âm của một thời đoạn lịch sử sống động – thời đoạn mở đầu công cuộc khai phá một vùng đất mà theo địa chất học mới được bồi tụ trước đó vài thế kỉ. Đây cũng là khoảng thời gian mà trong sử sách xưa nói đến sự kiến lập một số tiểu quốc trong vùng, trong đó “nước Phù Nam” được ghi chép là có địa bàn rộng lớn, có thế lực hùng mạnh, có quann hệ chính trị, văn hóa rộng rãi. Bởi lẽ cho đến nay chưa có một di tích nào của nền văn hóa Óc Eo có hiện trạng bảo tồn tương đối nguyên vẹn như di tích kiến trúc cổ Lưu Cừ. Mặt khác, đây là một di tích được xây cất bằng trình độ kĩ thuật-nghệ thuật cao và thật đặc sắc mà chưa hề thấy trong các di tích văn hóa cổ ở đồng bằng Nam bộ. Di tích này có niên đại khá cổ gần 2.000 năm cách nay là chứng tích thật tiêu biểu của văn hóa – lịch sử vùng này trong buổi đầu khai phá, mở mang. Di tích này cũng phản ánh sự kiện lớn trong quá trình biến đổi giao lưu kinh tế, văn hóa, đó là sự kiện hòa nhập của văn hóa cổ xưa Ấn Độ với văn hóa bản địa truyền thống để hình thành nền văn hóa Óc Eo nổi tiếng thế giới.

 

Nguồn: Ngô Văn Tưởng – Bảo tàng Cửu Long