Chùa Krapoumchhouk Chral (Chùa Chà)

Chùa Krapoumchhouk Chral (hay còn gọi là Chùa Chà) thuộc loại hình di tích lịch sử, tọa lạc tại ấp Sóc Chà B, xã Thanh Sơn, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh. Đến với di tích Chùa Chà thuận lợi bằng đường bộ, từ thành phố Trà Vinh theo quốc lộ 54 Trà Vinh - Trà Cú, đến ngã ba cổng chào Trà Cú (đường tránh thị trấn Trà Cú) rẽ trái đi thẳng 2 km tới ngã tư Sóc Chà, rồi tiếp tục rẽ trái vào hương lộ 36 đi khoảng 3 km là đến di tích. Chùa cách Ủy ban nhân dân xã Thanh Sơn khoảng 500 mét.

Trong những năm kháng chiến, chùa Chà không chỉ đơn thuần là trung tâm sinh hoạt tôn giáo, văn hóa, giáo dục của cộng đồng dân tộc Khmer tại phum sróc, mà còn là cơ sở hoạt động bí mật của lực lượng cách mạng, là địa điểm tập hợp quần chúng nhân dân và sư sãi của nhiều chùa trong và ngoài huyện để khởi xướng, phát động các phong trào mít tinh, biểu tình chống bắt lính, nơi tổ chức các cuộc hội họp đề ra kế hoạch tấn công địch, các phong trào đấu tranh chống lại sự đàn áp của chính quyền tay sai.

 

Cũng như những ngôi chùa Phật giáo Nam Tông Khmer khác trong tỉnh, chùa Chà có quần thể kiến trúc mang đặc trưng chùa Khmer Nam Bộ. Theo tài liệu viết tay ghi chép còn lưu lại tại chùa thì chùa Chà được tạo lập vào năm 1752, do phật tử địa phương hiến đất rồi cùng nhau xây dựng. Chùa tọa lạc trong khuôn viên rộng, quần thể kiến trúc gồm có: cổng chùa, chính điện, tăng xá, trai đường, sala, trường học, tháp để cốt. Trong khuôn viên chùa có nhiều cây cổ thụ như: sao, dầu, tạo nên một khung cảnh thoáng mát và yên tịnh.

 

Cổng chùa được xây dựng giáp với hương lộ 36 bằng vật liệu kiên cố xi măng cốt thép gồm hai hàng cột (trước và sau) mỗi hàng có 4 cột, chính giữa là lối đi rộng. Trên các đầu cột thì gắn tượng Key-no (tiên nữ) và tượng chim thần Krud với hai cánh xòe chống đỡ mái trông rất uy nghiêm. Cổng được xây dựng theo kiểu kiến trúc cổ kín, phía trên có ba ngọn tháp tượng trưng cho Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng).

Theo hướng cổng tam quan từ ngoài vào thì phía hai bên là trường học, kế đến phía bên phải là sala, bên trái là trai đường, kế đến khu vực trung tâm, giữa sân là cột cờ và chánh điện. Xung quanh chánh điện các hướng bắc, đông, nam là các dãy tăng xá với nhiều phòng. Phía sau là tháp để cốt và lò hỏa táng.

 

Chính điện là công trình quan trọng với kiến trúc qui mô, là nơi tập trung tài năng, kỹ xảo của những nghệ nhân Khmer và biểu thị các giá trị kiến trúc, mỹ thuật truyền thống của dân tộc. Chính điện được xây dựng vào năm 1752, đến nay đã qua vài lần trùng tu sửa chữa. Lần đại trùng tu lại chính điện là năm 1995, đến năm 2000 thì khánh thành.

Chính điện được xây dựng cao hơn hẳn so với các công trình kiến trúc khác, mặt quay về hướng Đông, vì người Khmer quan niệm đức Phật ở hướng Tây quay mặt về hướng Đông để cứu độ chúng sinh. Nền chính điện được xây trên ba cấp, quanh cấp nền thấp và cấp hành lang có xây tường rào bao quanh. Chính điện hình chữ nhật theo hướng Đông Tây, ở bốn hướng của chính điện đều có cửa ra vào. Từ dưới bước lên nền chính điện theo hướng Đông, Nam, Bắc có hai lối lên đối diện nhau, còn lối lên chánh điện phía hướng Tây có một lối rộng 4.8 mét. Hai bên lối vào chánh điện phía Đông có mô-tip hai rắn Naga và hai chằn đứng canh giữ. Độ cao bậc nền bậc 1 là 1.4 mét, bậc  (hành lang) và bậc 3 (chánh điện) là 30cm. Bậc nền có 8 bậc, bậc hành lang có 3 bậc, và bậc chính điện có 3 bậc.

Bậc hành lang chánh điện có hàng rào bao quanh bảo vệ, trên mỗi đầu cột có tượng thành Maha Prum và bông sen xen kẻ nhau. Khung sườn chịu lực bên trong chính điện gồm nhiều cột. Gần vách tường phía Tây là bệ thờ Phật, có nhiều tượng Phật với nhiều tư thế và kích thước lớn nhỏ khác nhau. Bậc trên cùng là tượng Preas Chi tượng Phật lớn (Preas Chi) bằng xi măng ngồi thiền trên toà sen.

Trên trần chính điện và xung quanh các bức tường bên trong được trang trí nhiều tranh vẽ với các đề tài về sự tích của đức Phật từ lúc mới sinh cho đến khi đắc đạo thành Phật và nhập niết bàn. Thượng trần chính điện có nhiều ô, gọi là “Pi-đanl”.

Trên mỗi đầu cột xung quanh chính điện đều được gắn tượng Key-no, riêng các cột ở ngay góc chính điện thì gắn tượng chim thần Krud với mình người đầu chim mỏ ngậm viên ngọc. Các tượng Krud với hai cánh tay khỏe khoắn chống đỡ mái một cách nhẹ nhàng.

Mái chùa dán gạch men nhỏ. Trên mỗi đỉnh góc mái được đắp một khúc đuôi rồng dài gọi là (Chồ-Wia), uốn mềm mại, cong vút. Trên các bờ dãy giáp mí của các nếp mái được đắp các tượng rồng (Phu chông), đầu rồng ở dạng kép nằm ở ngay vị trí các góc đao của mái, thân rồng nằm xoãi dài theo bờ dãy với hàng vi lưng được tỉa rõ từng cái uốn cong ngược lên trên 30o gọi là (Bai-dô-ka). Ở hai đầu hồi (Hô cheang) chính điện được xây kín và chạm trổ hoa văn. Xung quanh diềm mái chính điện có gắn (Rum-dôi-sa-bu) hoa văn diềm mái được các nghệ nhân thể hiện bằng loại hoa văn (Chô-khdol-boks) chạm trổ rất tinh xảo.

  Ngoài ra, trong khuôn viên chùa còn có các công trình kiến trúc khác có giá trị về mặt kiến trúc nghệ thuật.

 

Ngôi chùa với những lễ nghi cầu cúng, đã góp phần hữu hiệu vào việc đẩy mạnh ảnh hưởng của Phật giáo vào đời sống văn hóa tinh thần, tâm linh, vào cách ăn mặc, nếp nghĩ, lối sống của người dân Khmer. Chùa là nơi diễn ra các lễ hội truyền thống của dân tộc như: Bunl Chôl Chnam Thmây (Lễ Vào năm mới hay Lễ Chịu tuổi); Pithi Sêne Đôlta (Lễ Cúng ông bà); Bunl Som Peah Preah Khe hoặc Ok Om Bok (Lễ Cúng trăng hay Đút cốm dẹp).

Ngoài các lễ hội truyền thống, ở chùa còn tổ chức nhiều lễ hội khác gắn liền với Phật giáo Nam Tông Khmer (Therevada) như: Bunl Meak Bôchea (Lễ Ban hành giáo lý); Bunl Pisat Bôchea (Lễ Phật Đản); Bunl Chol Vasa (Lễ Nhập hạ); Bun Chênl Vasa (Lễ Xuất hạ); Lễ Dâng y (Kathina); Bunl Pithea Pisek (Lễ An vị tượng Phật)…

Nguồn: Nguyễn Hoàng Tuấn – Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Trà Vinh

(Ban Quản lý di tích tổng hợp).